Translate

Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

LẦN VỀ DẤU XƯA

(Về thân thế, sự nghiệp của Hoàng giáp Lương Chí
và các Tiến sĩ Lương Nghi, Lương Lâm)



1. Hoàng giáp Lương Chí
          Cụ huý Thải, tự Chí, sinh vào giờ Bính Ngọ, ngày mùng 2 tháng 7 năm Nhâm Dần (1542) trong một gia đình nông dân nghèo. Thi niên thiếu, ông thông minh, ham hc, theo thy ra tn xã Lê Xá, huyn Gia Vin, tnh Ninh Bình để hc. Sau đó, ông li ra huyn Gia Phúc, tnh Hi Dương để hc vi Tiến sĩ Phm Khc Kim.
          Ông sinh ra trong thời buổi loạn lạc, nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, sau đó nhà Lê ở vào thời kỳ Trung hưng, xây dựng cơ nghiệp tại Thanh Hóa nên chưa có điều kiện mở các khoa thi. Mãi đến khi ông 47 tuổi, nhà Lê mới mở khoa thi để chọn nhân tài ra giúp nước. Năm Quí Mùi (1583) ông thi đậu Cng sĩ loi ưu. Năm K Su (1589) vào thi Đình ông đậu Đệ nh giáp Tiến sĩ, Đệ nh danh (Hoàng giáp).
          Sau khi thi đậu, ông được b dng vào Hàn lâm hiu lí. Năm Quang Hưng th 16 (1593), giữ chức Đô tướng thái úy trưởng quc công phng nghinh thánh giá  tiến về Thủ đô Thăng Long, được Vua phong 2 cp: Hin cung đại phu, Sơn Nam x, Hiến sát s. Năm Quang Hưng th 19 (1596), do có công phng thánh giá Vua trở về thăm quê cũ-  Thang mc p” ở Thanh Hóa nên được vinh phong Hip mưu tá lí công thn, quang tiến thân lc đại phu, tước Văn thun nam.
          Năm Canh Tí (1600), ông được phong “Lễ Bộ Tả thị lang” (Thứ trưởng bộ Lễ), phụng sai “Bồi tụng” (Phó Tể tướng). Năm Tân Sửu (1601) được phong “Đặc tiến kim tử, vinh lộc đại phu”, Lại bộ Tả thị lang (Thứ trưởng bộ Lại), và được cử làm giám khảo thi Hương ở Nghệ An. Tháng 4 năm Quí Mão (1603), ông là khâm sai giám khảo thi Hương đạo Kinh Bắc và khâm sai khoa thi Hội tại Thăng Long. Năm Hoàng Định thứ 5, Ất Tị (1605), thăng Hộ Bộ Tả thị lang (Thứ trưởng bộ Hộ), nhập thị kinh diên. Đến tháng 12 cùng năm được thăng Hộ bộ Thượng thư (Bộ trưởng bộ Hộ), Tri kinh diên sự, tước Thuần lễ bá, khâm sai giám khảo thi Hương. Tháng 8 năm Hoàng Định thứ 8 (1608), do có công lĩnh được Thiên Triều ngân ấn, ông được vinh phong thêm chức Tham tụng (Tể tướng) kiêm “Quốc tử giám Tế tửu”. Năm Canh Tuất (1610) ông đang làm việc tại triều thì bị bệnh và qua đời vào giờ Dần, ngày 23 tháng 10, thọ 69 tuổi. Triu đình ban quan quách, đồ khâm lim, cp tut và 10 thuyn chiến, mt đội quân, 6 v quan h tng đưa linh cu theo đường thy v quê an táng.
          Trong hơn 20 năm làm quan, trải nhiều chức vị trọng yếu trong triều, Hoàng Giáp Lương Chí đã lập nhiều công lao góp phần trung hưng nhà Lê và giữ vững nền độc lập dân tộc. Ghi nhận công lao to lớn đó, sau khi ông qua đời, các triều đại phong kiến nước ta về sau tiếp tục truy phong ông nhiều tước hiệu cao quý. Ngày mùng 6 tháng 5 năm K T(1629), Đức Long nguyên niên, được truy phong Thái Bo Tào Qun Công. Ngày 26 tháng 7 năm Quý Mão (1783), niên hiu Cnh Hưng, truy phong Kinh văn vĩ quc dc vn phù t, din khánh thùy hưu, tá khánh ph quc, tích h khang dân Đại Vương. Đến triu Nguyn truy  phong: Thông chính cn khác, khoan đại đoan túc, dc bo trung hưng, trác vĩ Thượng đẳng thn.
          Mc dù khi đang làm quan ti triu, nm gi nhng chc trng quyn cao, bn rn trăm công nghìn vic nhưng ông vn quan tâm, lo lng đến quê hương đất t. Ông thy đây đất rng người thưa, có 4 làng xa nhau gm: làng Loi, làng Am, làng Đồng Bàn, làng Tào. Trong đó làng Tào nm khu Mã đội ly ngh trng tru, trng mía làm ngun sng chính, đời sng thp kém lc hu, mi mt khó khăn. Ông đứng ra vn động hp nht 4 làng thành mt, tp trung dân vào nơi trung độ và đặt tên là Tào Sơn xã, Tào thôn. M đường để dân đi li thun tin, lp đền để dân có nơi th cúng, làm đình để dân có nơi hi hp, m ch để dân có nơi trao đổi buôn bán. T chc lp hc ch Hán để con em có nơi hc hành nâng cao dân trí. Đặt hương l để da vào đó ràng buc ln nhau và gi gìn an ninh thôn xóm, un nn nếp sng đi vào thun phong m tc. Sau đó ông li gom dân lp thêm 2 làng mi: làng Văn Phúc phía Nam (nay thuộc Thanh Sơn) và làng Nhân M (còn gi là làng Thng Cnh hay làng May) nay thuc xã Tượng Văn, huyn Nông Cng. Hai làng mi lp nm vành đai phía ngoài nhm to thế gi gìn an ninh tm xa để bên trong được bình yên. Bốn làng hp nht, dân cư yên n nhưng đời sng vn còn khó khăn vì chưa có rung cy lúa 2 v. Năm niên hiu Hoàng Định th 2 (1602) ông được phng sai v Thanh Hóa nghiên cu, xem xét địa hình và t chc đắp cho Thanh Hóa mt con đê nm gia 3 huyn: Ngc Sơn, Nông Cng và Qung Xương t sông Chung chy ra cửa lch sông Yên (ch Hán ghi: Thượng t chung giang h chí hàn khu). Ông lĩnh 2 con voi  v dày đất đắp đê. Nhân thi cơ này ông t chc công trường đắp cho làng mt đon đê dài khong 3-4 km t đò Trp đến bến đò Giang Tiên. Khi đắp đê do bùn đất sình ly làm mt con voi b sa ly và cm mo chết. 
          Đức Thủy Tổ Đại Vương mất được 3 năm, đến năm Nhâm Tí (1612) có lệnh chỉ về làng cho lập đền thờ, nhưng cháu nội là tiến sĩ Lương Nghi nhận để con cháu trong họ đảm nhiệm để đỡ tốn kém cho dân, còn làng tổ chức thờ chung tại nghè thành một vị Thành Hoàng của làng.
          Ngày gi 23 tháng 10 (âm lịch) hàng năm t chc thành ngày đại l, tp trung tt c con cháu trong h và nhân dân đến d, mc đích để t lòng nh ơn ông v nhng công lao to ln đối vi nước, vi dân; Ly đó làm tm gương để giáo dc con cháu tu dưỡng hc tp. Trước ngày gi, sáng 22 nhân dân trong làng tp trung dn đường sch s để 12 gi trưa h khiêng kiu rước sc từ nghè làng v nhà th tế yết vào bui chiu. Ngày gi, làng Tào cm đồng (ngh sn xut) để nhân dân trong làng đến d l. Ba làng Tào Sơn (c Đông Tây Tào), Văn Phúc, Nhân M sm l vt: tru rượu, hương đăng đến nhà th tiến lễ.



Văn bia đền thờ Hoàng giáp Lương Chí và các Tiến sĩ Lương Nghi, Lương Lâm

          2. Tiến sĩ Lương Nghi
          Ông Lương Nghi sinh ngày 22 tháng 10 năm Giáp Dần (1614), là con trai đầu của ông Lương Yến, cháu nội ca đức thy t Đại Vương. Ông sinh ra đã có tướng mạo kỳ vĩ, khí chất thông minh. Năm 18 tuổi thi tứ trường đạt loại ưu, tiếp đó thụ nghiệp với Quốc lão Thượng thư Phạm Công Trứ người xã Liên Châu, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương.  Khoa Quí Mùi (1643), năm 30 tui, ông thi đậu Tiến sĩ.  Sau khi thi đậu, được b dng ra làm quan, gi chc Hàn Lâm hiu lý ri tri qua các chc Ni tán tham đồng, Tham tr Đông Các, Tham chính t Khanh, được Vua phong tước Tử” . Ông tho tiếng Tàu nên được c đi sứ, cùng s thn nhà Minh gii quyết nhiu vic cho ta. Được ha s người Tàu v cho mt bc chân dung trên nn la trng để lưu nim nhưng không may b ha hon cháy cùng vi các sách quý như: b Bích Ngc, sách thuc, sách địa lý Năm 70 tuổi ông v hưu ti quê nhà, được 11 năm thì mt, th 81 tui. Ông mt vào ngày 18 tháng 7 năm Giáp Tut (1694), đến ngày 24 tháng 3 năm t Mùi (1715) rước linh hài lên cát táng x Hc la núi Linh Sơn, ta Tí, hướng Ng
          Đối vi H:  Ông tiếp tc sáng lp bn tôn t đường (nhà th H) để th đức Thy T và các bc Tiên T; Mi ông Hòa Chính, thy Địa lí gii v phân kim định hướng đền Th. Năm Thnh Đức th 5 (1657), ông t b tin ra mua ca làng c mt phía Nam núi Linh Sơn, ri chn khu Hc La làm nghĩa trang ca dòng H để ct m ca t tiên. Ông nh ông Hòa Chính tìm huyt phân kim định hướng ri rước linh hài đức Thy T Đại Vương lên an táng (ngày 6 tháng 5 năm K Tị, 1689)
          Đối vi Làng: Ông tiếp tc t chc bi trúc con đê mà ông ni đắp trước đây (t đò Trp xung bến đò Giang Tiên). Đắp xong hoàn chnh ông sáng to ra ngũ 7 thước 5 ta (3m ngày nay) để làm chun chia rung cho dân. Phương pháp chia rung thành đạc dài cài nhau ta như đan nng, to thành nhiu trc phn (tc là phn đầu) để to li đi và hn chế vic chèn ln rung ca nhau, gây mt đoàn kết. Ông tiếp tc chnh đốn hương phong, xây dng thành bn Hương l đi đôi vi vic lp ra các t chc theo la tui như t 54 tui tr lên là ph lão, người cao tui nht trong gii lão gi là Th ch. Th ch được gii lão tôn trng và các gii khác trong làng phi tôn trng chung. T 37 đến 53 tui được gi chung là trm. Trong gii trm li phân ra làm 2: t 37 đến 50 tui được min mt s công vic nng nhc, t 51 đến 53 được gi là trm nhưng được min tt c phu phen tp dch ...
          Hương ước là th lut riêng ca làng, được rút kinh nghim t ông ni để li. Ông đã c th hóa thêm và ly đó làm cơ s để giáo dc cho mi người đi vào khuôn kh, xây dng nếp sng, thun phong mĩ tc, loi b nhng tp tc lc hu, nhng thói hư tt xu làm cho Tào Sơn văn minh tiến b, có tiếng là làng Văn Hiến ca đất Tĩnh Gia. 
          3. Tiến sĩ Lương Lâm  
          Ông húy Ngh, t Lâm, sinh gi t Hi ngày 22 tháng 2 năm K T (1689). Thi k m ông đang mang thai thường nm mng thy có ngôi sao chiếu vào ca s, sau sinh ra ông tính tình trm lng, thông minh, ham hc, đọc sách sut năm canh, lúc nào cũng cm quyn sách trong tay. Năm 1702, khoa Nhâm Ng, 14 tui đi thi đứng đầu x huyn, sau theo hc vi quan T mc Lê Cn Thanh Hoa ri tiếp tc đi th nghip vi Thám hoa Vũ Thành. Năm Vĩnh Thnh th 7, khoa Tân Mão (1711) thi đậu Cng sĩ. Khoa t Mùi (1715) thi đậu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xut thân, đồng khoa với thy hc là Lê Cn. Khi đậu đa khoa cha m còn trường mnh nên c gia đình vô cùng phn khi. Ông được b dng làm giám sát ng s đạo Kinh Bc. Năm Nhâm Dn (1722) phng sai Đốc đồng x Hi Dương. Năm K Hi (1719) ông làm bn s C quc gia nguyên bn  được Vua ban xung thi hành. Năm Canh Tí (1720) Đốc đồng x Hi Dương hết 3 tháng, chuyn nhim đến tnh Lng Sơn gp Bc Triu để tra cu s vic ti biên gii 2 nước, ri li đến nhn chc Đốc đồng x Tuyên Quang. Đồng thi được thăng Sơn Nam Đạo giám sát ng s. Tái phng đến ca i 2 nước và được Vua y nhim lĩnh Thiên triu ngân n. Nhim v hoàn tt, tr v Thăng Long sau mt thi gian thì lâm bnh và qua đời vào ngày 27 tháng 11 năm t T (1725).

     (Nguồn Họ Lương Tào Sơn)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét